Kinh Nghiệm Nuôi Gà Đông Tảo Archives

Bệnh cúm ở Gà Đông Tảo

1/ Triệu chứng: Rối loạn về hô hấp là chủ yếu. Gà đông tảo biểu hiện khó thở, xoang mũi và xoang miệng bị viêm có nhiều dịch nhầy lẫn máu, mào tím tái, đầu bị sưng phù. Chảy máu dưới da là đặc trưng của bệnh cúm gà. Sản lượng trứng giảm rõ rệt, tỷ lệ chết thấp.
2/ Bệnh tích: Xuất huyết dưới da và phù đầu. Xung huyết và xuất huyết ở niêm mạc đường hô hấp, ở lớp mỡ phủ tạng, phổi bị viêm và túi khí có chứa dịch nhầy dạng casein.
3/ Cá ;ch phòng trị: Thực hiện tiêm phòng bằng vaccine H5N1. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh cúm. Khi phát hiện gà bị bệnh cần báo ngay cho Trung tâm Nông nghiệp huyện hoặc cán bộ thú y xã để được hướng dẫn xử lý kịp thời.

Bệnh newcastle (Bệnh tân thành gà) gà Đông Tảo

1/ Triệu chứng: Bệnh thường xảy ra vào mùa đông ở mọi lứa tuổi. Gà ủ rũ, bỏ ăn, khó thở (khò khè), có nhiều rãi, mào tím, khát nước, đi ỉa chảy, phân lỏng, quánh nhớt màu trắng có lẫn máu, mùi tanh khó chịu. Bệnh kéo dài thể hiện triệu chứng thần kinh như ngoẹo đầu và cổ. Gầy sút nhanh, đi vòng tròn, thường chết sau 5-7 ngày.
2/ Bệnh tích: Xuất huyết nặng ở đường tiêu hoá, rõ rệt nhất ở dạ dày tuyến. Niêm mạc đường hô hấp xung huyết, có nhiều dịch nhầy từ thanh quản tới các phế quản nhỏ, túi khí đục và dầy lên, tim xuất huyết.
3/ Cách phòng trị: Thực hiện nghiêm ngặt lịch tiêm phòng, khi gà được 03 ngày tuổi và 21 ngày tuổi dùng vaccine Lasota nhỏ mũi, mắt. 2 tháng tuổi tiêm vaccine Newcastle hệ I. Không nên mua gà chưa tiêm phòng, gà không rõ nguồn gốc về nuôi. Nuôi cách ly gà mới mua về.

Bệnh gumboro gà đông tảo

1/ Triệu chứng: Thể lâm sàng: Ở gà 3-6 tuần tuổi và có thể trên 10 tuần tuổi. Biểu hiện đầu tiên là cơ vòng hậu môn luôn co bóp, sốt cao, bỏ ăn và khát nước, sau ỉa chảy, gà chết cao nhất ở ngày thứ 3 sau đó giảm hẳn mà không cần can thiệp. Phân loãng có màu trắng, lẫn máu; gà ủ rũ, lông xù, xã cánh, nằm quẹo rồi chết.
- Thể ẩn thường xảy ra ở gà dưới 03 tuần tuổi gây suy giảm miễn dịch. Vì thể hiện lâm sàng không rõ nên dễ nhầm với các bệnh khác nh 845;t là bệnh Newcastle.
2/ Bệnh tích: Giai đoạn đầu túi Fabricius sưng rất to, sau teo lại có nhiều dịch nhầy màu trắng, có nhiều điểm và vệt xuất huyết. Thận sưng và xuất huyết sau đó ruột và dạ dày tuyến xuất huyết nên dễ nhầm với bệnh Newcastle. Giai đoạn cuối xuất hiện từng vệt xuất huyết ở cơ đùi và cơ ngực.
3/ Cách phòng trị: Nhập gà ở nơi không có bệnh và đã tiêm phòng bệnh Gumboro ở đàn gà mẹ. Nuôi cách ly gà mới nhập.
- Thực hiện việc tiêm phòng theo đú ;ng lịch quy định của nhà sản xuất. Nuôi gà tập trung trong dân tốt nhất nên dùng vaccine nhỏ mắt, cho uống hay tiêm dưới da vào 1 ngày, 7 ngày và 14 ngày tuổi. Những nơi trước đây đã có dịch nên tiêm phòng liều thứ tư vào 21 ngày tuổi.
Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh Gumboro.

Bệnh ngộ độc do mặn, hoá chất, nhấm mốc aflatoxin:

Ngộ độc muối làm gà uống nước nhiều, tích nước dưới da, bại liệt, có thể sưng khớp. Ngộ độc hoá chất, gà cũng uống nước nhiều, có khi chưa kịp có triệu chứng đã chết, mổ ra có mùi hoá chất bị nhiễm trước hết là ở diều, mề, lâu hơn có thể thấm vào thịt. Cả đàn gà cùng ăn uống một loại thức ăn đều biểu hiện bệnh, con nào ăn khoẻ còn bị ngộ độc nhanh hơn.
Gà ăn ngô mốc có đầu đen ở hạt, khô lạc mốc, thức ăn vón mốc . . . là bị ngộ độc mà nguy hại nhất là độc tố aflatoxin làm gà kém ăn, lông xù, giảm đẻ rõ rệt, trứng ấp nở kém. Ngộ độc nặng gây chết gà rất nhanh. Gan sưng có chấm xuất huyết, màu xám hoặc vàng đất thó, thận gà ốm sưng và xuất huyết.
Phòng ngộ độc bằng cách theo dõi đàn gà thường ngày, thấy hiện tượng khác thường là phải xem xét ngay nước uống, thức ăn. Thức ăn mặn phải cho thêm ngô, cám; thức ăn mốc, có hoá chất phải loại bỏ. Nếu nưN 99;c bẩn, nhiều con, nước giếng khơi, nước ao v... là phải thay, phải lọc sát trùng. Tuyệt đối không để thức ăn, nước uống cạnh thuốc sâu, thuốc chuột v.v...

Bệnh mổ cắn (canibalizm) là thói quen có hại của gà:

Mổ cắn có các dạng:
a) Mố cắn hậu môn (ven picking): Gà đẻ nhiều quá làm dãn dạ con hoặc gà mới vào đẻ, trứng hơi to cũng làm cho lòi dom. Khi niêm mạc dạ con lòi ra, màu hồng kích thích gà khác
mổ cắn vào làm chảy máu, màu đỏ càng quyến rũ gà xúm lại mổ làm cho lòi cả ruột rồi chết.
b) Mổ cắn đứt lông (Feather pulling): ở gà nuôi nhốt không được vận động, dinh dưỡng và khoáng không đủ gây nên hiện tượng gà mổ lông nhau, quanh ống chân lông bị mổ có s ắc tố tập trung tạo hình màu nâu sẫm.
c) Mổ cắn ngón chân (Toe picking) : Thường xảy ra với gà con trước hết do bị đói vì thành máng cao, để xa, thiếu máng, con bé yếu bị con to chèn. Khi không tìm được thức ăn, gà sẽ mổ chân mình hoặc chân con khác.
d) mổ cắn trên đầu (Head picking): Khi ở mào, tích có vết thương là bị gà khác mổ cắn tiếp. Gà nuôi nhốt lồng hay mổ cắn tích, mào, đầu. Gà đã cắt mỏ, nhốt ở lồng khác vẫn nhoài đầu ra ngoài với tới mổ cắn g 4; nhốt bên cạnh.
Một tập hợp khá nhiều nguyên nhân gây ra bệnh mổ cắn: ăn thức ăn viên; Lượng ngô quá nhiều trong thức ăn; Thiếu máng ăn, máng uống; Gà nhịn đói lâu; Thiếu ổ đẻ và ổ đẻ đặt nơi quá sáng; Nhốt chật quá; Thức ăn thiếu chất dinh dưỡng và thiếu khoáng; Bị kích thích do ngoại ký sinh trùng: mạt, rận... Khi đã có một số con mổ cắn nhau, đàn gà tiếp tục thói quen đó không cần có sự kích thích nào khác.
Khắc phục bệnh mổ cắn bằng các bi 879;n pháp: Thức ăn chất lượng tốt; Cho ăn đủ không để gà đói lâu (kể cả phương thức thả và cho ăn thêm) ; Cho ăn thêm rau đối với gà nhốt và gà thả; Đủ máng ăn uống; Không nhốt quá chật; Đảm bảo chuồng thông thoáng, tránh ánh sáng mạnh quá, gây kích thích cho gà; Nuôi đàn đông cần cắt mỏ.
Khi gà bị vết thương do mổ cắn lấy thuốc xanh Methylen bôi vào, không bôi thuốc đỏ vì màu đỏ kích thích làm gà tiếp tục mổ cắn.

Bệnh cầu trùng (Coccidiosis avium):

Là bệnh phổ biến gây thiệt hại cho các đàn gà không nhỏ vì khí hậu nước ta nóng ẩm là điều kiện cho loại cầu trùng phát triển. Đối với gà thả vườn môi trường tiếp xúc rộng càng dễ nhiễm bệnh này.
Bệnh do ký sinh trùng đơn bào thuộc Genus eimeria gây nên làm tổn thương những lớp tế bào niêm mạc ruột. Loại ký sinh trùng này thường sống và phát triển trong tế bào ruột gây phá huỷ tế bào ấy. Hậu quả là gây viêm ruột từ trạng thái nhẹ kiểu viêm ca ta, ha y còn gọi là viêm xuất dịch tới viêm xuất huyết làm niêm mạc, hạ niêm mạc và cả những lớp cơ ruột bị thương. ở các thể bệnh, phân gà thường lẫn máu.
Có đến 9 loài cầu trùng, ở đây chỉ đề cập đến một số loài quan trọng, hay gặp phải:
a) Cầu trùng ở manh tràng gà do Eimeria tenella trên niêm mạc manh tràng gây viêm xuất huyết cấp tính. Gà bệnh suy kiệt nhanh, phân có máu kèm dịch nhầy, thường xảy ra ở gà 3-4 tuần tuổi. Gà xù lông, có biểu hiện thiếu máu, chế ;t đến 20-30% hoặc 'hơn. Niêm mạc manh tràng tổn thương nặng, xuất huyết lấm tấm thành từng đám. Có các đám mũ, bã đậu kèm máu.
b) Cầu trùng ruột non cấp tính do Eimeria necatrix là loài gây bệnh nhiều nhất trong các loài ký sinh trùng ở ruột non, gây ra cấp tính nặng, thường xảy ra ở gà 6-8 tuần tuổi. Bị bệnh cầu trùng ruột non, gà bỏ ăn, xù lông, ỉa chảy ra nhiều nước lẫn lượng lớn dịch muội và dịch hoại tử, có lẫn máu nhưng không nhiều như cầu trùng manh tràng. Bệnh cầ ;u trùng ruột non lây lan chậm, thời gian nung bệnh dài hơn do gà thải ra ít noãn nang yếu. Ruột dày lên, có xuất huyết ở nhiều trường hời), thành ruột có màu đỏ sẫm, dễ vỡ có dịch lẫn máu tràn ra.
c) Cầu trùng mãn tính do các loại cầu trùng ký sinh ở gà như Eimeria maxima, Eimeria mivati,... quan trọng nhất là Eimeria acervulina, có thể do 2 loài Eimeria tenella (cầu trùng manh tràng) và Eimeria necatrix (cầu trùng ruột nong Gà ốm ăn ít, chậm lớn, bệnh xuất hiện từ từ, ỉa lỏng nhiều, gà gầy, đẻ giảm, chất lượng tr&# 7913;ng kém, niêm mạc ruột viêm, có những vệt xuất huyết.
Biện pháp phòng trị: Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, khô ráo, tuyệt đối không để ẩm ướt. Định kỳ quét vôi, phun formol 2% hay crezyl 3% sát trùng chuồng trại, thiết bị, dụng cụ chăn nuôi. Sau mỗi đợt nuôi gà để'chuồng trống một thời gian. Tổng vệ sinh toàn bộ bên trong và khu vực bên ngoài chuồng, phun thuốc sát trùng, đệm lót ủ phân rắc vôi bột, hoặc tốt hơn là đốt chất độn cũ. Nền chuồng phải sát trùng kỹ bằng dung dịch xút 2% đun nóng (nếu có điều kiện) hoặc đốt chém lửa kỹ. Trong từng ô chuồng nên nuôi một loại gà cùng lứa. Mật độ chuồng nuôi không chật hẹp quá. Chú ý diệt chuột, cách ly người ra vào khu chăn nuôi.
Trị bệnh bằng các loại thuốc: EsB3 Coccistop-2000, Rigecoccin, Furazolidon, Avicoc, Stenorol theo hướng dẫn của nơi sản xuất. Với thuốc Furazolidon, Rigecoccin liều trộn vào thức ăn 35-40 g/tạ, hoặc trộn với cơm viên lại đút'cho gà ăn ở gia đình cho đến lúc khỏi bệnh.

Bệnh hô hấp mãn tính (CRD: Chronic Respiratory Disease)

1/ Triệu chứng: Gà mắc bệnh thường ủ rũ, kém ăn và chậm lớn. Triệu chứng bệnh thể hiện rõ rệt như hắt hơi, ho, thở khò khè (hen), thở khó.
2/ Bệnh tích: Viêm khí quản mãn tính nên niêm mạc bị xung huyết. Viêm túi khí nếu kết hợp với chúng tôi thì túi khí đục có dịch nhầy quánh như bã đậu, tim sưng to.
3/ Cách phòng trị: Gà giống hay trứng phải được nhập từ trại gà không có bệnh CRD.
- Vệ sinh tốt chuồng trại đảm bảo thoáng mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa  73;ông và khô ráo vào mùa mưa.
- Có thể dùng một số kháng sinh để phòng và chữa bệnh như: Tylosulfa, Tyamulin, Suanovil-5, CRD stop, Gentatylo... Một tháng sử dụng 2 lần mỗi lần 3 ngày liền theo liều phòng bệnh. Chỉ dùng vaccine phòng cho gà giống quý vì giá vaccin quá đắt.

Bệnh bạch lỵ

1/ Triệu chứng: Gà con bỏ ăn, ủ rũ, lông xơ xác, nằm chết chất đống trong chuồng, tỷ lệ mắc bệnh cao tới 40%. Triệu chứng điển hình là ỉa phân trắng. Phân dính vào lông quanh hậu môn. Gà con mắc bệnh còi cọc, chậm lớn và thường bị què do viêm khớp. Trứng bị nhiễm Salmonella có tỷ lệ ấp nở thấp. (Salmonella là vi khuẩn gây ra bệnh bạch lỵ)
2/ Bệnh tích: Gan và lách sưng to có điểm hoại tử, rốn bị sưng, túi lòng đỏ chưa tiêu. Tim, phổi có những nốt sần màu xám. Kết tràng, mang tràng chứa dịch nhầy quánh như bã đậu. Gà lớn mang trùng thì buồng trứng biến dạng méo mó, viêm bao tim, viêm màng bụng, viêm khớp.
3/ Cách phòng trị:
- Gà đông tảo giống hay trứng phải được nhập từ trại gà không có bệnh. Tiêu độc máy ấp vào trứng trước khi đem ấp.
- Dùng thuốc phòng bệnh ngay sau khi gà mới nở. Có thể sử dựng một trong số các loại thuốc sau: Chlortetra-C 5g/3kg thức ăn, Ampi-septol 4g/2kg thức ăn, Gentacostrim 1g/2lít nước uống.

Bệnh tụ huyết trùng (Pasteurellosis)

Là bệnh truyền nhiễm lây lan cấp tính hay mãn tính ở gia cầm do vi khuẩn thuộc họ Pasteurella gây ra. Vi khuẩn này tồn tại trong thiên nhiên nhất là các vùng ao tù, ngòi lạch nước đọng, có khi ngay cả trong cơ thể gia cầm khoẻ mạnh, đặc biệt là gia cầm nuôi thả như gà Ri . . . khi sức đề kháng của gà bị giảm thì bệnh phát sinh.
Gà bị bệnh do thả chung đàn gà khoẻ có gà ốm tiếp xúc, thức ăn, nước uống nhiễm mầm bệnh, vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gà qua các vết xước ở da. Gà bị bệnh ở 3 mức độ (3 thể) :
- Thể quá cấp tính (ác tính) gà chết đột ngột không kịp thể hiên triệu chứng gì. Có khi gà đang ăn, đang ấp lăn ra chết, chỉ kịp giãy đập vài cái và kêu "quắc" . . .
- Thể cấp tính: Gà ủ rũ, sốt, bỏ ăn, xù lông, chậm chạp mào tích xanh tím, miệng có dãi, nhớt đục, sùi bọt, thở khò khè, phân loãng màu nhạt, sau chuyển màu xanh sẫm có lẫn dịch nhầy. . . Gà chết sau 24-72 giờ do kiệt sức, ngạt thở, tỷ lệ chết cao lên đến trên 50%.  903; gà có hiện tượng liệt duỗi thẳng chân.
- Thể mãn tính: Gà ỉa chảy kéo dài, gầy, có khi bị sưng khớp, què, đẻ kém, tích sưng to còn gọi là bệnh tích sưng... Có hiện lượng khó thở có tiếng ran ở khí quản.
Bệnh tích ở thể cấp tính cho thấy có hiện tượng tắc rối loạn tuần hoàn ở gà bệnh, xung huyết nội tạng, xuất huyết từng đám ở cổ, đầu tim, thanh mạc phổi, mỡ bụng, niêm mạc ruột. Viêm màng bao tim. Gan sưng màu nâu vàng.
Phòng và chữa bệnh: Đối vớ ;i bệnh tụ huyết trùng, phòng là biện pháp tích cực, hiệu quả nhất. Cách phòng tốt nhất là không đưa gà, vịt, ngan lạ về nuôi hoặc giết mổ trong khu chuồng trại chăn nuôi. Nếu mua giống về nuôi phải chọn nơi an toàn dịch, đưu gà về nhốt riêng 7-10 ngày sau khoẻ mạnh mới thả chung vào đàn.
- Định kỳ cho phòng liều kháng sinh nhẹ: Tetracilin 250 g/tấn thức ăn, hoặc Furazolidon 300 g/tấn thức ăn, liên tục cho ăn trong 5 ngày; Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng bằng thức ăn có chất lượng, gà nuô i thả tăng lượng thức ăn cho ăn thêm. Lúc có dịch chọn loại xử lý gà ốm, gà chết, tách đàn gà khoẻ nhốt lại không thả, tăng cường vệ sinh, chăm sóc đàn gà bằng thức ăn, nước uống đầy đủ; Gà ốm có thể điều trị : S treptomycin 120- 150 mg/kg thể trọng kết hợp với liều Penicillin 150 mg/kg thể trọng hoặc Chlortetracyclin 40 mg/kg thể trọng gà.

Các bạn có thể tìm hiểu thêm về kinh nghiệm nuôi hươu

Next Post Previous Post